NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ CẤU TRÚC HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH TỐ TRONG CẤU TRÚC HỆ THÔNG PHÁP LUẬT
Pháp luật là một phạm trù có tính lịch sử, một hiện tượng đặc biệt của văn minh và văn hoá, có vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội và cá nhân. Pháp luật luôn vận động, phát triển và biến đổi theo những quy luật chung và những quy luật đặc thù. Pháp luật là một khái niệm chung có tính nền tảng, có chiều sâu về bản chất, phong phú, đa dạng về nội dung, chặt chẽ, riêng biệt về cấu trúc, phương thức tồn tại, vận động và phát triển. Pháp luật vừa có tính trừu tượng, khái quát lại vừa có tính cụ thể, xác định. Pháp luật không chỉ là hệ thống các quy phạm cụ thể, hiện hữu, thực định, mà còn bao gồm cả những yếu tố nền tảng, có tính khái quát, định tính phản ánh chiều sâu bản chất, quyền lực và tiềm năng của pháp luật. Với những đặc điểm đó, pháp luật có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau và bằng nhiều cách thức khác nhau, do đó khái niệm hệ thống pháp luật cũng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và khó có thể tìm được một định nghĩa có thể bao quát được đầy đủ nội dung và thoả mãn cho mọi cách tiếp cận.
Hệ thống pháp luật cũng là một khái niệm cơ bản nhưng có tính cụ thể hơn so với khái niệm pháp luật, là sự tiếp nối phản ánh về mặt nội dung của pháp luật gắn với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia cụ thể. Hệ thống pháp luật có nội hàm rộng, phức tạp với tính đặc thù về cấu trúc nội dung, tính chặt chẽ về hình thức, tính khác biệt về hiệu lực và phương thức tác động, điều chỉnh của mỗi bộ phận hợp thành. Hệ thống pháp luật luôn phát triển, biến đổi không ngừng và chịu sự tác động mạnh mẽ của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và truyền thống pháp lý. Vì thế, hệ thống pháp luật luôn là chủ đề có tính thời sự, được bàn luận nhiều với những quan điểm khác nhau tuỳ thuộc vào quan niệm, cách tiếp cận, mục đích và yêu cầu cụ thể được đặt ra cho việc nghiên cứu, ứng dụng.
Cấu trúc hệ thống pháp luật là vấn đề cốt lõi của hệ thống pháp luật. Cấu trúc hệ thống pháp luật là mô hình hệ thống, phản ánh cách thức tổ chức, phân định, sắp xếp các bộ phận (thành tố) hợp thành của hệ thống pháp luật một cách khách quan, khoa học; xác lập và giải quyết mối quan hệ giữa các thành tố một cách hợp lý, để vừa bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của toàn bộ hệ thống. vừa bảo đảm tính phong phú, đa dạng và tính độc lập tương đối của mỗi thành tố.
Khái niệm cấu trúc hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật gắn bó mật thiết với nhau “như hình với bóng”. Đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của hệ thống pháp luật. Cùng với đó, khái niệm cấu trúc hệ thống pháp luật còn có nội hàm rộng hơn, sâu hơn trong mối quan hệ với khái niệm cấu trúc bản chất của pháp luật và với các yếu tố bên ngoài hệ thống pháp luật.
Trong bài viết này chúng tôi tiếp cận khái niệm cấu trúc hệ thống pháp luật trên trên ba phương diện triết học pháp luật, luật học, xã hội học và kết hợp một số phương pháp khác để giải quyết mối quan hệ giữa các thành tố của pháp luật và hệ thống pháp luật một cách toàn diện về bản chất, nội dung và hình thức. Tuy nhiên, do sự hạn chế về thời gian và khuôn khổ, bài viết chỉ tập trung phân tích mấy vấn đề sau: (1) khái niệm chung về cấu trúc hệ thống pháp luật; (2) những quan niệm cơ bản về cấu trúc của hệ thống pháp luật; (3) những quan niệm cơ bản về hệ thống pháp luật; (4) định vị hệ thống pháp luật trong bản đồ pháp luật thế giới; (5) nêu một số nhận xét và kiến nghị về hướng tiếp tục hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật.
 1. Khái niệm cấu trúc hệ thống pháp luật
Về mặt thuật ngữ, Cấu trúc được sử dụng theo hai nghĩa, trong đó: (1) với nghĩa là danh từ, cấu trúc “Là tổng hoà các mối quan hệ bên trong của một chỉnh thể, một hệ thống” và (2) với nghĩa động từ, thì cấu trúc là “Tạo nên theo một cấu trúc nhất định”[1]. Trong tổ hợp Cấu trúc của hệ thống pháp luật (cấu trúc hệ thống pháp luật) thì Cấu trúc là một danh từ. Nếu theo những giải thích trên thì thuật ngữ cấu trúc chưa phản ánh được chiều sâu bản chất, nội dung, hình thức và tính khách quan của hệ thống pháp luật. Vì vậy, cần sử dụng thuật ngữ cấu trúc hệ thống pháp luật theo nghĩa của một thuật ngữ triết học đó là: “Phương thức, cách thức tổ chức tương đối bền vững của các yếu tố trong một hệ thống. Nếu như khái niệm hệ thống bao quát các mặt hết sức khác nhau của một khách thể, một chỉnh thể phức tạp nào đó (như cấu tạo, thành phần, phương thức tồn tại, hình thức phát triển ) thì khái niệm cấu trúc trước hết vạch ra những nhân tố như tính bền vững, tính ổn định của khách thể hay đối tượng mà nhờ đó, nó duy trì được chất của nó khi các điều kiện bên ngoài hay bên trong biến đổi. Khi cấu trúc bị phá vỡ hay biến đổi thì hệ thống không tránh khỏi bị phá vỡ hoặc biến đổi. Nếu hệ thống là sự liên kết các yếu tố có mối liên hệ qua lại và quy định lẫn nhau thì cấu trúc là thành phần cấu tạo là tổ chức bên trong của một chỉnh thể thống nhất”[2].
Vận dụng thuật ngữ này vào lý luận về pháp luật có thể hiểu cấu trúc hệ thống pháp luật như sau: Cấu trúc của hệ thống pháp luật (cấu trúc hệ thống pháp luật) là vấn đề cốt lõi của hệ thống pháp luật, là mô hình phản ánh cách thức tổ chức, phân định, sắp đặt các bộ phận hợp thành (thành tố) của hệ thống pháp luật một cách khách quan, khoa học, xác lập và giải quyết mối quan hệ giữa các thành tố của hệ thống một cách hợp lý, để vừa bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của toàn bộ hệ thống. vừa bảo đảm tính phong phú, đa dạng và tính độc lập tương đối của mỗi thành tố thuộc hệ thống.
2. Một số quan niệm cơ bản về cấu trúc của hệ thống pháp luật
Việc xác định cấu trúc của hệ thống pháp luật phụ thuộc nhiều vào cách tiếp cận, quan niệm lý luận (lý thuyết) và thực tiễn pháp luật. Có thể nêu một số quan niệm cơ bản về cấu trúc của hệ thống pháp luật như sau:
2.1. Quan niệm về trật tự thứ bậc pháp lý (Legal Hierarchies) trong cấu trúc hệ thống pháp luật[3]
Học thuyết về cấu trúc thứ bậc của trật tự pháp luật do Hans Kelsen và A.J.Merkl đề ra và được công bố chính thức vào năm 1918[4]. Ngay sau khi công bố, học thuyết này đã được đánh giá rất cao và trở thành một bộ phận cốt yếu bổ sung và làm hoàn thiện “Học thuyết thuần tuý về pháp luật” do Kelsen sáng lập. Học thuyết cấu trúc thứ bậc của trật tự pháp luật được đánh giá là một thành tựu quan trọng nhất của trường phái luật học Vienne về lý thuyết pháp luật và “là yếu tố duy nhất không xây trên cát mà đứng trên một nền tảng vững chắc”[5].
Học thuyết này có những nội dung chủ yếu như sau:
- Luận điểm có tính xuất phát điểm của học thuyết thuần tuý về pháp luật là phân tích, làm rõ sự khác biệt giữa “cái là” (is) và cái phải là (ought) để luận giải các quy tắc của pháp luật, từ đó khái quát và chứng minh rằng quy tắc, chuẩn mực pháp luật có đặc thù riêng, do đó: không thể suy từ các quan hệ quyền lực thực tế sang tính hiệu lực của một quy phạm pháp luật (xem thêm ví dụ 1).
Để minh chứng cho kết luận này, Kelsen đã nêu một ví dụ điển hình về sự khác biệt giữa mệnh lệnh của một tên cướp tiền với hành vi thu tiền của một viên chức thu thuế (xem thêm ví dụ 2). Theo đó, quy phạm pháp luật được đề ra là yếu tố duy nhất có hiệu lực. Hiệu lực của quy phạm pháp luật có tính chính danh, là kết quả của nhận thức, sự lựa chọn và quyết định của một thực thể quyền lực nhất định, được thừa nhận chính thức, không phải là sự ngẫu nhiên, phi chính thức dù nó có thể đang tồn tại trong thực tế.   
Ví dụ 1:
Khi nói: “Một trạng thái sự việc nhất định đang tồn tại” hoàn toàn khác với “Một trạng thái sự việc nhất định phải tồn tại”. Bởi vì, câu trong trạng thái thứ nhất nói về thực tại, còn câu trong trạng thái thứ hai nói về một mệnh lệnh có tính quy phạm, một quy tắc, một chuẩn mực (gọi chung là chuẩn tắc). Trong thực tế, có thể có sự trùng hợp, thậm chí là trùng khớp giữa “cái là” và cái “phải là”, nhưng theo Kelsen thì đó là cách tiếp cận “vật chất, lịch sử, tâm lý” còn về mặt lôgic thì không có nhịp cầu nào bắc nối từ phía này sang phía kia.
Ví dụ 2:
Khi tên cuớp nói: “đưa tiền đây!”, trong trường hợp này nếu người bị tên cướp yêu cầu từ chối tuân theo thì hắn có thể dùng vũ lực để ép buộc. Còn trường hợp viên chức thu thuế yêu cầu một người nộp tiền thuế và nếu cần cũng có thể sử dụng biện pháp cưỡng chế để thu. Tuy nhiên, mệnh lệnh của viên chức thuế hoàn toàn khác với mệnh lệnh của tên cướp, bởi vì đằng sau ý chí chủ quan của viên chức thuế là “cái phải là”, nghĩa là cái có hiệu lực, được diễn giải như một quy phạm pháp luật. 
 - Một nội dung quan trọng khác của học thuyết về cấu trúc thứ bậc của trật tự pháp luật này là luận điểm về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quy phạm pháp luật và về quy phạm cơ bản (grundnorm). Luận điểm này khẳng định rằng: “Nền tảng hiệu lực của một quy phạm chỉ có thể là một quy phạm khác có hiệu lực cao hơn”, trong đó các quy phạm có hiệu lực cao nhất là các quy phạm cơ bản (grundnorm) mà Kelsen gọi đó là quy phạm Hiến pháp. Theo đó, một trật tự pháp luật được xác lập và có thể được hình dung như một cấu trúc bao gồm các quy phạm “cao” và “thấp” được sắp xếp theo một trật tự thứ bậc lôgic và chặt chẽ. Trong trật tự pháp luật của một quốc gia, Hiến pháp là tổng thể các quy phạm cơ bản (grundnorm) có hiệu lực pháp lý cao nhất, và là “luật tối thượng”.
- Từ những lập luận trên, Kelsen và Merkl đã xây dựng mô hình cấu trúc hệ thống pháp luật như một kim tự tháp của hệ thống các quy phạm pháp luật được sắp xếp theo thứ bậc từ cao xuống thấp: Trên đỉnh tháp là Hiến pháp, bao gồm các chuẩn tắc cơ bản cao nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật. Dưới Hiến pháp là các luật do cơ quan lập pháp ban hành và dưới các luật là hệ các văn bản dưới luật do các cơ quan khác được uỷ quyền tạo lập, ban  hành cụ thể. Nếu các chuẩn mực cấp thấp trái với các chuẩn mực cấp cao hơn thì chúng sẽ bị coi là bị vô hiệu hoá. Theo đó, tính thứ bậc trong trật tự pháp luật được coi yếu tố quan trọng nhất để xác định một hệ thống cấu trúc pháp luật. Đây cũng chính là nền tảng để tạo cho pháp luật có sức mạnh và quyền lực lớn nhất. Vì, mỗi quy phạm là một bộ phận hợp thành của hệ thống pháp luật, hiệu lực của mỗi quy phạm không chỉ được bảo đảm bằng sức mạnh của riêng nó, mà còn được bảo đảm bằng sức mạnh của các quy phạm có hiệu lực cao hơn và rộng hơn là của cả hệ thống pháp luật.  
- Tuy nhiên, có một câu hỏi lớn được đặt ra là: Nếu nền tảng hiệu lực của một quy phạm chỉ có thể là một quy phạm khác có hiệu lực cao hơn, thì hiệu lực của Hiến pháp có được là dựa trên nền tảng của quy phạm pháp luật nào? Bởi vì, theo nguyên lý trên thì Hiến pháp cũng phải dựa trên cơ sở hiệu lực từ một quy phạm khác, chẳng hạn từ một hiến pháp được ban hành trước đó hoặc một Hiến pháp được tạo lập mới bằng kết quả của một cuộc cách mạng chẳng hạn. Học thuyết về tính thứ bậc của trật tự pháp lý đã có lập luận như sau: Trong trường hợp thứ nhất, thì vấn đề cần xem xét là Hiến pháp trước đó đã quy định thủ tục sửa đổi và các quy định về quy trình sửa đổi đó như thế nào và nếu có thì phải thực hiện đúng theo các quy định về trình tự và thủ tục sửa đổi đó. Trong trường hợp thứ hai, Hiến pháp mới hình thành bằng một hành động cách mạng, thì phải có một cơ quan lập hiến (quốc hội lập hiến) được trao quyền để tạo lập và ban hành Hiến pháp. (Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam chính là trong trường hợp này và Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đề ra tư tưởng về hiến pháp và đã chỉ đạo quá trình làm ra hiến pháp 1946 hết sức bài bản, theo đúng chuẩn mực quốc tế hiện đại).  
- Trong xã hội hiện đại, hệ thống pháp luật quốc gia luôn có quan hệ mật thiết với pháp luật quốc tế. Vì vậy, có một câu hỏi khác được đặt ra là liệu trong hệ thống luật quốc gia có thể có một số quy phạm có cơ sở hiệu lực là các quy phạm pháp luật quốc tế không? Về điểm này, thì một học trò khác của Kelsen là Alfred Verdross đã nghiên cứu, bổ sung và đã chứng minh rằng luật quốc gia hiện đại có lấy một số quy phạm của luật quốc tế làm cơ sở hiệu lực. Sự bổ sung này của Verdross là rất đáng chú ý vì như vậy cấu trúc thứ bậc của trật tự pháp luật sẽ kéo dài từ phạm vi quốc gia sang cả phạm vi quốc tế.
- Một điểm quan trọng khác trong cấu trúc thứ bậc của hệ thống pháp luật đó là tính “tự quy định việc tạo lập chính mình của pháp luật”. Một trật tự pháp luật phát triển cao không chỉ có các quy tắc chi tiết điều chỉnh trực tiếp các mối quan hệ xã hội, mà còn có những quy tắc tương tự trao quyền cho các cơ quan được tạo ra quy tắc bằng nguyên tắc “uỷ quyền lập pháp, lập quy”. Những quy tắc này chi tiết đến đâu, cấu trúc thứ bậc có bao nhiêu tầng, hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trong trật tự lôgich của nó luôn phải có tầng cao nhất, tầng trung gian và tầng thấp nhất. Giữa tầng cao nhất (Hiến pháp) và tầng thấp nhất (hành vi thi hành quy phạm) là các tầng trung gian – nơi việc tạo lập quy phạm được định chuẩn bởi quy phạm cao hơn, đồng thời lại là điều kiện để tạo lập các quy phạm thấp hơn. Nếu tầng cao nhất là tạo lập luật tuyệt đối, và tầng thấp nhất là áp dụng luật tuyệt đối, thì các tầng ở giữa, theo ngôn ngữ nổi tiếng của Merkl, “mang hai gương mặt”: chúng vừa là thi hành luật (nhìn từ tầng trên), vừa là tạo lập luật (nhìn từ tầng dưới). Merkl mô tả sự tạo lập quy phạm từ tầng này sang tầng khác như một quá trình cụ thể hóa theo mức độ: các quy phạm chung dần dần phát triển thành quy phạm chuyên biệt, cụ thể hơn.
2.2. Quan niệm về mối liên kết giữa các quy tắc sơ cấp (primary rules) với các quy tắc thứ cấp (secondary rules) trong cấu trúc hệ thống pháp luật
Đây là quan niệm của Herbert Lionel Adolphus Hart. Mặc dù thừa nhận giá trị và đánh giá rất cao vai trò, sự ảnh hưởng to lớn của Học thuyết thuần tuý về pháp luật của Kelsen, trong đó có vấn đề cốt lõi là quan niệm về tính thứ bậc trong cấu trúc của hệ thống pháp luật, nhưng Hart cũng có những nhận xét có tính phê phán về một số điểm hạn chế trong học thuyết đó. Đồng thời, Hart đã có những phát hiện mới rất đáng chú ý về các yếu tố nền tảng của một hệ thống pháp luật và về mối quan hệ giữa các quy tắc sơ cấp (primary rules), còn gọi là các quy tắc cơ bản, với các quy tắc thứ cấp (secondary rules) trong cấu trúc hệ thống pháp luật.
- Hart đã lập luận và chứng minh rằng, các hệ quy tắc trong hệ thống pháp luật hiện đại không thể chỉ quy giản thành quy định (mệnh lệnh) và chế tài được mà phải hiểu chúng theo nghĩa rộng hơn, thực tế hơn. Theo ông, pháp luật có tính quyền lực nhưng đồng thời nó cũng mang trong mình nó tính xã hội. Nếu pháp luật đạt được sự thừa nhận của xã hội ở mức đủ cao thì mọi người sẽ cảm nhận được các nghĩa vụ được quy định trong luật và có thể tự mình thực hiện các nghĩa vụ đó.
- Hart đã phát hiện và chứng minh sự khác biệt và mối quan hệ chặt chẽ giữa các quy tắc sơ cấp (quy tắc cơ bản) (primary rules) với các quy tắc thứ cấp (secondary rules) trong cấu trúc hệ thống pháp luật. Trong đó, các quy tắc sơ cấp là các quy tắc quy định về yêu cầu, nghĩa vụ hoặc cấm đoán. Những quy tắc này có tính áp đặt và bắt buộc chung; chúng có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực, có thể “rõ” hoặc “mờ” và có thể có 3 khiếm khuyết đó là: tính không chắc chắn (uncertainty); sự tĩnh tại, ít thay đổi (static); và, kém hiệu quả (inefficiency). Các quy tắc thứ cấp là các quy tắc có tính thủ tục được đặt ra để thực thi hoặc sửa đổi luật.
Các quy tắc thứ cấp có vai trò quan trọng trong việc khắc phục những khiếm khuyết nói trên của các quy phạm sơ cấp. Do đó, theo Hart nếu như các quy tắc sơ cấp có sự không chắc chắn về nội dung, ít thay đổi để phù hợp về yêu cầu, thời gian và kém hiệu quả thì cũng cần có ba loại quy tắc thứ cấp tương ứng để giải quyết đó là: các quy phạm có liên quan đến sự công nhận; các quy phạm có liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và các quy phạm liên quan đến tài phán, xét xử, bảo đảm hiệu quả của luật. Đây cũng chính là cơ sở để Hart xây dựng khái niệm về giá trị pháp lý (legal validity) và bàn về cấu trúc của hệ thống pháp luật.
Như vậy, Hart đã xây dựng lý thuyết về hệ thống pháp luật theo hướng mở rộng, đưa vào khái niệm hệ thống pháp luật yếu tố xã hội, tạo cơ sở cho việc giải mối quan hệ giữa pháp luật với xã hội, coi yếu tố con người, sự thừa nhận của xã hội và sự vận hành của pháp luật là cơ sở để xác định cấu trúc hệ thống pháp luật. Cấu trúc hệ thống pháp luật theo quan điểm của Hart là cấu trúc hai tầng bao gồm hệ thống các quy phạm sơ cấp và hệ thống các quy phạm thứ cấp.
2.3. Quan niệm cấu trúc hệ thống pháp luật như một hệ thống chuẩn tắc thể chế (Institutionalized Normative System)
Đây là quan niệm của Joseph Raz (1939 – 2022), người đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Hart về cấu trúc hệ thống pháp luật lên một tầm mức mới. J.Raz đã mở rộng khái niệm cấu trúc hệ thống pháp luật và xây dựng học thuyết về pháp luật như một hệ thống chuẩn tắc thể chế có thẩm quyền (an institutionalized normative system). J.Raz cho rằng, để hiểu đúng cấu trúc của pháp luật, thì phải nhìn nó như một thiết chế xã hội có tổ chức, trong đó các quy tắc, thể chế và thẩm quyền pháp lý được vận hành trong mối quan hệ tương hỗ với nhau nhằm định hướng hành vi con người.
Theo Raz, cấu trúc của hệ thống pháp luật vừa là trật tự chuẩn tắc (normative order) vừa là hệ thống thể chế (institutional system), trong đó yếu tố trung tâm là thẩm quyền (authority). Raz định nghĩa: “The law is an institutionalized system of norms.” (Pháp luật là một hệ thống quy phạm được thể chế hóa). Theo đó, pháp luật không chỉ là tập hợp các quy phạm, mà còn là bao gồm các thể chế pháp luật (các cơ quan), các quy trình và thiết chế có chức năng tạo lập, áp dụng và duy trì các quy tắc có tính chuẩn mực và bắt buộc. Như vậy, tính mới trong quan điểm của Raz là đặt trọng tâm vào tính thể chế hóa (institutionalization): pháp luật chỉ tồn tại và có hiệu lực thực sự khi nó được tổ chức thành hệ thống thể chế có thẩm quyền hợp pháp, có khả năng hành động và ràng buộc xã hội.
Cấu trúc hệ thống pháp luật theo quan niệm của J.Raz gồm có ba yếu tố hợp thành chủ yếu là: (1) các quy phạm pháp luật (norms): Những quy định do cơ quan có thẩm quyền ban hành, xác định rõ quyền, nghĩa vụ và chế tài; (2) Các thể chế pháp lý (Institutions), bao gồm các cơ quan và các trình tự, quy trình được tổ chức thực hiện việc ban hành, giải thích và áp dụng pháp luật (Quốc hội, Tòa án, Chính phủ...); (3) Thẩm quyền pháp lý (Authority): là quyền năng để thực hiện các hành vi chính đáng, hợp pháp và yêu cầu các chủ thể khác phải thực hiện các hành vi phù hợp với pháp luật. Đó là ba yếu tố tạo nên mạng thẩm quyền (authority network). Theo quan niệm của J.Raz, ba yếu tố đó có quan hệ mật thiết với nhau để tạo nên mạng thẩm quyền và đó là cốt lõi của cấu trúc hệ thống pháp luật.
Với cấu trúc đó, hệ thống pháp luật được tạo thành thông qua một chuỗi các hoạt động tạo lập quy tắc, chuẩn mực; diễn giải và áp dụng luật; thực thi và duy trì trật tự pháp luật gắn với các cơ quan có thẩm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Toàn bộ quy trình này hình thành một “cấu trúc động” của pháp luật, trong đó tính hợp pháp chỉ có ý nghĩa khi nó được gắn liền với tính thẩm quyền và tính chính danh.
J.Raz luôn coi trọng yếu tố thẩm quyền, coi thẩm quyền là trung tâm của toàn bộ cấu trúc hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, đó phải là thẩm quyền chính đáng, thẩm quyền phục vụ, để giúp cho con người hành động phù hợp với lý chí và các giá trị đạo đức.
2.4. Quan niệm về cấu trúc thể chế - vận hành của hệ thống pháp luật
Đây là quan niệm của John Henry Merryman (1912–2015), một trong những học giả hàng đầu trong lĩnh vực luật học so sánh (comparative law), giáo sư danh dự của Đại học Stanford (Hoa Kỳ). Khác với ba học giả trên, John Henry Merryman không xây dựng lý thuyết triết học trừu tượng, mà đưa ra mô hình hệ thống pháp luật được mô tả như một cơ chế vận hành gồm ba yếu tố tương tác với nhau là: quy phạm pháp luật, thể chế pháp lý và thủ tục pháp lý, trong đó:
- Quy phạm pháp luật là những nội dung cụ thể để điều chỉnh hành vi của chủ thể pháp luật;
- Các thể chế như nghị viện, toà án, chính phủ là cơ quan thiết lập, duy trì, thực thi và áp dụng pháp luật;
- Các thủ tục pháp lý là cơ chế vận hành, bảo đảm sự minh bạch, công bằng và hiệu lực thực tế của pháp luật.
Theo Merryman, để hiểu bản chất và cấu trúc của pháp luật, không thể chỉ xem xét nội dung của các quy phạm, mà phải nhận thức được toàn bộ cơ chế vận hành của pháp luật như một chỉnh thể sống động gồm các thể chế, thủ tục và quy tắc. Hệ thống pháp luật có cấu trúc nội tại không tĩnh tại, mà là một hệ thống luôn vận hành (an operating system), trong đó các yếu tố pháp lý và các yếu tố xã hội cùng tương tác để tạo lập, duy trì và phát triển trật tự pháp lý một cách liên tục.
Trong cấu trúc ba thành phần của hệ thống pháp luật thì:
1. Thể chế pháp lý (Legal Institutions), theo Merryman là xương sống của hệ thống pháp luật, bao gồm các cơ quan, tổ chức và các chủ thể thực hiện chức năng tạo lập, giải thích và thi hành pháp luật: Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát, các tổ chức nghề nghiệp pháp lý (luật sư, công chứng viên, trọng tài viên), các cơ sở đào tạo luật… đều có vị trí và vai trò nhất định trong hệ thống đó. Merryman cho rằng thể chế pháp lý chính là cấu trúc quyền lực và tổ chức của hệ thống. Nó quyết định hình thức và nội dung của pháp luật, đồng thời là cơ sở để xác lập tính hợp pháp và hiệu lực của các quy phạm pháp luật;  Merryman nhấn mạnh rằng sự ổn định và hiệu quả của thể chế là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định và hiệu lực của toàn bộ hệ thống pháp luật.
2. Thủ tục pháp lý (Legal Procedures):  Thủ tục, trong quan niệm của Merryman, không chỉ là các quy trình kỹ thuật, mà là phương thức thực thi quyền lực pháp lý. Nó bao gồm:
- Thủ tục lập pháp (legislative process): cách thức ban hành luật và các văn bản quy phạm;
- Thủ tục xét xử (judicial procedure): quy trình tố tụng, bằng chứng, tranh tụng;
- Thủ tục hành chính (administrative procedure): quá trình ra quyết định và giám sát hành chính;
- Các cơ chế thay thế (alternative dispute resolution): trọng tài, hòa giải, thương lượng.
Trong cấu trúc hệ thống pháp luật, thủ tục có vai trò rất quan trọng. Thủ tục kết nối các thể chế pháp lý với các quy tắc pháp lý, biến pháp luật từ văn bản thành hành động; thủ tục là “cầu nối” giữa quy phạm với thực tiễn và là công cụ đảm bảo cho quyền lực pháp lý được thực hiện đúng đắn, minh bạch và có trách nhiệm.Một hệ thống pháp luật có cấu trúc tốt phải có thủ tục rõ ràng, hợp lý và tương thích với thể chế cùng quy phạm.
3. Quy phạm pháp luật. Theo Merryman, quy phạm là thành tố có tính cụ thể. Mặc dù nó chỉ là một bộ phận của pháp luật, là “phần nổi của tảng băng chìm pháp lý”, nhưng nó là biểu hiện cụ thể của pháp luật, thể hiện của ý chí nhà nước hoặc của tập thể, được ghi nhận trong các nguồn luật khác nhau (hiến pháp, đạo luật, án lệ, tập quán, nguyên tắc chung..). Tuy nhiên, cần nhận thức rõ rằng, các quy tắc thường rất nhiêu về số lượng và là phần dễ thấy nhất, nhưng chúng chỉ là một phần của cấu trúc lớn hơn nhiều, vì vậy, các quy phạm pháp luật phải được hiểu trong mối quan hệ hữu cơ với các thể chế ban hành và các thủ tục áp dụng chúng. Hệ thống pháp luật chỉ có ý nghĩa khi ba thành tố này vận hành thống nhất - thể chế thiết lập quy tắc, thủ tục đảm bảo thi hành, và quy tắc phản ánh trật tự mà thể chế mong muốn duy trì.
Về mối quan hệ nội tại giữa ba yếu tố trong cấu trúc của hệ thống pháp luật. Merryman không coi cấu trúc hệ thống pháp luật là một trật tự phân tầng như mô hình “kim tự tháp pháp lý” của Hans Kelsen, mà là một mạng lưới năng động (dynamic network). Trong đó, ba yếu tố thể chế, thủ tục và quy tắc vận hành một cách tương hỗ, ràng buộc lẫn nhau theo mô hình tam giác vận hành: Thể chế giữ vai trò tổ chức trong việc tạo ra và thực hiện các thủ tục, ban hành và bảo đảm thực thi quy phạm pháp luật. Thủ tục là cơ chế vận hành để thực hiện quyền lực và thẩm quyền pháp lý, là cầu nối giữa thể chế và quy phạm pháp luật, bảo đảm tính hợp pháp và hiệu quả của pháp luật. Quy phạm pháp luật quy định nội dung, yêu cầu, mục đích của pháp luật để điều chỉnh hành vi chủ thể pháp luật, bảo đảm hiệu quả hoạt động của các thể chế và các chủ thể pháp luật. Cấu trúc này cho phép hệ thống pháp luật vừa có tính ổn định, vừa có tính thích ứng trước các biến đổi xã hội.
Với quan niệm cấu trúc pháp luật theo mô hình tam giác vận hành, Merryman còn chú ý tới yếu tố truyền thống pháp lý và bối cảnh văn hoá pháp luật của cơ chế vận hành đó. Ông cho rằng: Không thể hiểu một hệ thống pháp luật nếu tách khỏi truyền thống pháp lý của nó – tức là những thái độ được định hình lịch sử về bản chất của pháp luật, vai trò của pháp luật trong xã hội và tổ chức của các thể chế pháp lý. Theo đó, cấu trúc của hệ thống pháp luật mang tính văn hóa – xã hội, phản ánh lịch sử hình thành và giá trị cốt lõi của từng quốc gia. Cấu trúc của mỗi hệ thống pháp luật cụ thể chính là sự kết tinh của truyền thống đó: sự khác biệt trong cơ quan lập pháp, cơ chế tố tụng, vai trò thẩm phán hay kỹ thuật lập pháp đều là biểu hiện của nền văn hóa pháp lý tương ứng.
Như vậy, quan niệm của Merryman về cấu trúc hệ thống pháp luật đã mở rộng phạm vi khái niệm “hệ thống pháp luật” – từ chỗ được hiểu như một hệ thống quy phạm thuần túy (theo Kelsen) thành một hệ thống thể chế – xã hội – văn hóa. Pháp luật, trong cách hiểu của Merryman, không chỉ là “tập hợp quy tắc xử sự”, mà là hệ thống các quan hệ xã hội được điều phối bởi thiết chế và thủ tục hợp pháp. Với luận điểm này, có thể nói Merryman là người đã nêu quan niệm về “xã hội hóa” và “văn hóa hóa” khái niệm cấu trúc pháp luật, đưa lý luận pháp lý đến gần với thực tế tổ chức và vận hành nhà nước.
Về phương diện thực tiễn quan điểm này cung cấp một khung phân tích hữu ích cho cải cách pháp luật và hoàn thiện thể chế. Theo đó, cải cách pháp luật không thể chỉ giới hạn trong việc sửa đổi quy phạm, mà cần đồng bộ ở ba cấp độ, bao gồm:
- Cải cách thể chế – củng cố năng lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp;
- Cải cách thủ tục – đảm bảo tính minh bạch, khả năng tiếp cận và tính công bằng;
- Hoàn thiện kỹ thuật lập pháp và hệ thống hóa quy phạm – bảo đảm tính thống nhất và ổn định của hệ thống.
2.5. Quan niệm về cấu trúc hệ thống pháp luật là sự kết hợp giữa quy tắc, nguyên tắc và chính sách
Quan điểm này do Ronald Dworkin (1931–2013), giáo sư luật học tại Oxford và New York University, là một trong những nhà tư tưởng pháp lý có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong thế kỷ XX đề ra. Ông được xem là người khởi xướng trào lưu “hậu thực chứng pháp lý” (post-positivism), kế thừa và phản biện trực tiếp các lý thuyết của H. L. A. Hart và Hans Kelsen, đồng thời đưa ra mô hình pháp luật như một hệ thống “diễn giải toàn vẹn” (Law as Integrity) – trong đó, pháp luật được cấu trúc không chỉ bằng các quy tắc (rules), mà còn bằng nguyên tắc (principles) và chính sách (policies), gắn liền với nền tảng đạo đức và công lý của cộng đồng.
Theo Dworkin, việc xem pháp luật như một hệ thống các quy tắc có hiệu lực hình thức (Kelsen) hoặc như sự kết hợp của các quy tắc sơ cấp và thứ cấp (Hart) mới chỉ phản ánh cấu trúc bề mặt của hệ thống pháp luật, mà bỏ qua chiều sâu đạo lý – chính trị là những giá trị có tính bản chất và là linh hồn của pháp luật. Dworkin cho rằng, điểm cốt lõi của pháp luật là pháp luật phản ánh các nguyên tắc đạo đức mà xã hội chấp nhận và hướng tới. Với ông, lập luận pháp lý, suy cho cùng, là một hình thức của lập luận đạo đức “Legal reasoning is an exercise in moral reasoning”. Theo đó, Dworkin đã nêu một cách hiểu mới về pháp luật: pháp luật là “sự toàn vẹn của lý trí đạo đức trong hành động thể chế. Trên cơ sở đó, Dworkin đã đề ra học thuyết về cấu trúc hệ thống pháp luật theo mô hình kết hợp hài hoà giữa quy tắc, nguyên tắc và chính sách.
Theo Dworkin, quy tắc, nguyên tắc và chính sách là ba thành tố (hợp phần) của cấu trúc hệ thống pháp luật. Mỗi thành tố có bản chất, chức năng riêng trong hệ thống pháp luật, trong đó:
- Quy tắc có bản chất là các quy định, chuẩn mực có tính mệnh lệnh rõ ràng  (đúng/sai) để xác định quyền, nghĩa vụ và chế tài cụ thể ttrong các tình huống điển hình.
- Nguyên tắc là những chuẩn mực đạo đức - pháp lý được thừa nhận trong cộng đồng, xã hội có chức năng hướng dẫn việc giải thích, áp dụng và giới hạn hiệu lực của các quy phạm pháp luật.
- Chính sách là các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội mà hệ thống pháp luật hướng tới có chức năng định hướng, chỉ đạo hoạt động lập pháp và thực thi pháp luật.
Ba yếu tố này không tồn tại độc lập mà tương tác trong một mạng lưới diễn giải (interpretive network), tạo nên cấu trúc pháp luật vừa có tính chuẩn tắc, vừa có tính giá trị. Ví dụ: Khi tòa án giải quyết vụ việc về “quyền biểu tình”, họ không chỉ áp dụng quy tắc cấm tụ tập trái phép, mà còn phải cân nhắc nguyên tắc “tự do ngôn luận” và chính sách “duy trì trật tự công cộng”. Tính “cấu trúc” của pháp luật ở đây thể hiện trong sự cân bằng động giữa ba yếu tố Quy tắc - Nguyên tắc - Chính sách.
Một trong những luận điểm độc đáo trong tư duy về cấu trúc hệ thống pháp luật của Dworkin là ông nhấn mạnh và khẳng định vai trò của nguyên tắc pháp lý (legal principles). Theo ông, nguyên tắc khác với quy tắc (rule) ở chỗ, nguyên tắc không có cấu trúc “nếu…thì…” cố định, mà có “sức nặng” (weight) và tầm quan trọng trong từng trường hợp cụ thể.
Ví dụ: nguyên tắc “không ai bị trừng phạt hai lần vì cùng một tội” (non bis in idem) hay “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” không quy định kết quả cụ thể, nhưng nó định hướng toàn bộ hệ thống trong việc ra quyết định. Do đó, nguyên tắc chính là cấu trúc nền tảng ẩn dưới các quy tắc, tạo nên “bản sắc đạo lý” của hệ thống pháp luật.
Một luận điểm khác mà Dworkin quan tâm phân tích đó là vai trò của “diễn giải” trong cấu trúc hệ thốngpháp luật. Theo Dworkin, một hệ thống pháp luật không thể hiểu đơn thuần bằng việc “đọc” quy phạm; nó phải được diễn giải (interpretation) trong bối cảnh xã hội, đạo đức và truyền thống pháp lý. Quá trình diễn giải này chính là mạch sống của cấu trúc pháp luật, được thực hiện qua các chủ thể như thẩm phán, người có thẩm quyền, trách nhiệm, học giả, và cộng đồng pháp lý. Với quan điểm này, Dworkin coi hệ thống pháp luật là một thực thể do nhiều người tạo ra, giống như “một tiểu thuyết nhiều tác giả”.  Vì thế, cấu trúc hệ thống pháp luật không tĩnh mà luôn động, luôn vận động và được “tái kiến tạo” qua từng hành vi giải thích pháp lý.
Dworkin đã lập luận và đưa ra khái niệm pháp luật như một sự toàn vẹn “Law as Integrity” với nội dung cơ bản: Xem pháp luật là một cấu trúc đạo lý thống nhất, trong đó các quy phạm, nguyên tắc và chính sách phải được diễn giải một cách nhất quán với toàn bộ hệ giá trị của cộng đồng. Khác với Kelsen – người tìm kiếm tính hợp pháp hình thức, hay Hart – người nhấn mạnh tính chấp nhận xã hội, Dworkin hướng đến tính toàn vẹn đạo lý (moral integrity). Ông cho rằng pháp luật chỉ chính danh khi nó thể hiện sự trung thành với những giá trị đạo đức mà cộng đồng đã lựa chọn qua thời gian.
Tính toàn vẹn trong cấu trúc hệ thống pháp luật được thể hiện ở ba cấp độ:
- Toàn vẹn về quy phạm (normative integrity): các quy tắc không mâu thuẫn với nguyên tắc nền tảng;
- Toàn vẹn về thể chế (institutional integrity) – các cơ quan thực thi pháp luật hành động nhất quán, phù hợp với mục tiêu công lý.
- Toàn vẹn về diễn giải (interpretive integrity) – quá trình xét xử và lập luận phản ánh cùng một tiếng nói đạo lý.
Như vậy, cấu trúc của hệ thống pháp luật theo quan niệm của Dworkin là một hệ thống mở, thống nhất và diễn giải được, nơi mỗi quyết định pháp lý đều phải “phù hợp và biện minh được” với tổng hoà hệ giá trị.
Lý thuyết cấu trúc hệ thống pháp luật của Dworkin có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với sự phát triển của tư duy pháp lý hiện đại. Về mặt lý luận, định nghĩa cấu trúc của hệ thống pháp luật như một chỉnh thể đạo lý - thể chế - diễn giải đã hoàn toàn vượt khỏi mô hình quy phạm thuần tuý, coi hệ thống pháp luật là hệ thống quy phạm khép kín. Về phương pháp luận, quan niệm của Dworkin mở ra một hướng mới về “phương pháp diễn giải pháp lý” (interpretivism), nhấn mạnh vai trò của lý trí đạo đức trong thực hành pháp luật. Về mặt thực tiễn, lý thuyết của Dworkin đặt nền cho các xu hướng phát triển hiện của đại như: Tư pháp tích cực (judicial activism), Hiến pháp sống động (living constitution), nhà nước pháp quyền nhân văn - công lý không chỉ hợp pháp mà còn là sự biểu hiện của đạo lý và tính chính đáng; bảo đảm tính toàn vẹn của pháp luật là bảo đảm cho pháp luật vừa có hiệu lực, hiệu quả, vừa phản ánh những giá trị đạo đức và tinh thần của cộng đồng.
3. Một số quan niệm cơ bản về hệ thống pháp luật và cấu trúc nội dung của hệ thống pháp luật
Trong lý luận và thực tiễn pháp lý có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về hệ thống pháp luật, trong đó có một số quan niệm cơ bản sau đây:
- Quan điểm truyền thống của nhiều nhà luật học cho rằng, cần có sự phân biệt hai khái niệm: Hệ thống pháp luật và hệ thống luật thực định. Theo đó, hệ thống pháp luật được hiểu là cấu trúc bên trong của pháp luật, còn hệ thống luật thực định là hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật (còn gọi là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hay hệ thống nguồn của pháp luật)[6]. Hệ thống pháp luật được hình thành và phát triển phù hợp với cơ cấu của các quan hệ xã hội, còn hệ thống luật thực định được hình thành trong quá trình ban hành các bộ luật, sắp xếp, tập hợp hóa các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Quan điểm này nhấn mạnh một khía có tính xuất phát điểm, đó là sự khác nhau giữa hai phạm trù pháp luật và luật, khẳng định rằng pháp luật là một khái niệm chung, có tính bao quát và rộng hơn khái niệm luật, một khái niệm có tính cụ thể. Về nội dung của hai khái niệm này được xác định như sau: Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có tính thống nhất nội tại bền vững đồng thời có tính độc lập nhất định, được phân chia thành các nhánh, các lĩnh vực pháp luật (ngành luật) và các chế định pháp luật; còn hệ thống pháp luật thực định là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của một quốc gia được sắp xếp theo trật tự thang bậc giá trị khác nhau và về thực chất, đó là kết quả của quá trình tập hợp hoá và pháp điển hoá. Việc xác định nội dung như vậy đã hoàn toàn loại trừ các yếu tố như: Các nguyên tắc chính trị, triết học, kỹ thuật pháp lý... ra ngoài phạm vi của khái niệm.
- Một quan điểm khác lại cho rằng chỉ có một khái niệm hệ thống pháp luật, không thể phân biệt rõ được hai khái niệm hệ thống pháp luật và hệ thống pháp luật thực định. Theo quan điểm này, hệ thống pháp luật có nội dung rất rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và những nguồn khác của pháp luật tồn tại trong thực tế mà dựa trên cơ sở đó tính hiện thực của pháp luật được bảo đảm và pháp luật phát huy hiệu lực. Các nguồn đó là các trào lưu (khuynh hướng) pháp lý, kỹ thuật pháp lý, các nguyên tắc chính trị, triết học cũng như các phương pháp hoạt động của nhà luật học - thực nghiệm. Với cách hiểu như vậy, các học giả theo quan điểm này sử dụng khái niệm hệ thống pháp luật (legal system) với nghĩa tương đồng với truyền thống pháp luật (legal traditions) hay các dòng họ pháp luật (families of law). Điển hình cho xu hướng này là Rene David. Trong sách “Các hệ thống pháp luật cơ bản trong thế giới đương đại”, R.David đã chia các hệ thống pháp luật trên thế giới thành bốn hệ thống cơ bản, bao gồm: Hệ thống pháp luật dân sự, hệ thống thông luật, hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật hồi giáo. Đồng thời, ông cũng mô tả khá kỹ về hệ thống pháp luật tập quán[7].
Cách phân chia này có ý nghĩa rất quan trọng về phương pháp luận và kỹ thuật pháp lý, tạo điều kiện cho việc tiếp cận hệ thống pháp luật một cách toàn diện hơn, đặt hệ thống pháp luật trong điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội cụ thể để xem xét. Quan điểm này có tác động và ảnh hưởng rất lớn đối với việc nghiên cứu luật học so sánh và văn hoá pháp luật.
- Một quan niệm khá phổ biến ở nhiều nước là coi hệ thống pháp luật bao gồm hệ thống pháp luật thực định và hệ thống tư pháp. Quan điểm này cho rằng, toà án là một hợp phần không thể thiếu của hệ thống pháp luật, vì với vị trí, chức năng đặc thù của mình, toà án có vai trò quan trọng trong giải thích pháp luật, phát hiện những khoảng trống, những điểm mờ của pháp luật, góp phần làm cho pháp luật trở nên ngày càng trở nên rõ ràng, hoàn thiện để bảo vệ công lý, thiết lập và duy trị một trật tự pháp luật của xã hội và thực hiện một trong những nguyên tắc của quyền tư pháp  là toà án không được từ chối giải quyết vụ việc vì lý do chưa có hoặc không có luật.
- Một quan điểm được thể hiện trong kết quả nghiên cứu mới ở Việt Nam cho rằng: “Hệ thống pháp luật quốc gia là một chỉnh thể thống nhất gồm hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận (tập quán, án lệ…) và hệ thống các thiết chế xây dựng và thi hành pháp luật, được thiết kế, vận hành thông suốt, liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn về điều chỉnh pháp luật vì mục tiêu phát triển bền vững của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện”[8]. Với định nghĩa này, hệ thống pháp luật được hiểu là một quá trình thống nhất giữa xây dựng và thực hiện pháp luật; hệ thống pháp luật là một chỉnh thể thống nhất của thể chế và các thiết chế pháp luật. Theo đó, hệ thống pháp luật được hiều theo nghĩa rộng, gồm tất cả các yếu tố của một nền pháp luật của quốc gia.
- Một số ý kiến cho rằng, Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, có sự thay đổi lớn về cách tiếp cận hệ thống pháp luật… Mặc dù trong Nghị quyết không có một định nghĩa cụ thể, nhưng qua mục tiêu, quan điểm và nội dung của Nghị quyết cho thấy, khái niệm hệ thống pháp luật được quan niệm theo hướng mở rộng. Các bộ phận trong hệ thống pháp luật được đề cập trong Nghị quyết số 48-NQ/TW không chỉ là các quy phạm pháp luật mà còn bao gồm cả các thiết chế thi hành pháp luật, gắn với đội ngũ nhân lực và hệ thống đào tạo nhân lực pháp luật cùng hệ thống thông tin pháp luật[9].
Từ phân tích trên cho thấy, mỗi cách tiếp cận đều có mục đích nhất định và trong mỗi quan điểm ấy đều có những điểm hợp lý, có giá trị lý luận, thực tiễn có thể tham khảo, đồng thời cũng có những hạn chế nhất định.
Theo chúng tôi, xuất phát từ quan niệm chung, hệ thống được hiểu là một chỉnh thể thống nhất được tạo lập bởi các yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, được sắp xếp theo một trình tự và được vận hành theo những nguyên tắc nhất định. Đối với mỗi bộ môn, mỗi lĩnh vực khoa học, hệ thống tri thức là một thể thống nhất bao gồm những tư tưởng, quan điểm, những nguyên tắc, quy tắc liên kết với nhau một cách chặt chẽ, lôgich[10]. Khi xem xét một hệ thống cần phải xét đến bản chất, nội dung, cấu trúc và những mối liên hệ của các yếu tố bên trong của hệ thống đó, đồng thời cũng phải xét đến những biểu hiện cụ thể bên ngoài của nó, coi đó là hai mặt của một thể  thống nhất không tách rời nhau. Đối với hệ thống pháp luật, bên cạnh những điểm chung đó, còn cần phải chú ý tới tính chất, phạm vi, chức năng và những đặc điểm đặc thù của pháp luật. Cách tiếp cận lý luận kết hợp với thực tiễn một cách hợp lý để xây dựng khái niệm hệ thống pháp luật, xác định các tiêu chí của hệ thống pháp luật để đánh giá và tìm kiếm các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật trong bối cảnh mới là phương thức là cần thiết.
Cách tiếp cận này nhấn mạnh tính hệ thống và tính đặc thù của pháp luật, coi hệ thống pháp luật là một thực thể, có cấu trúc bản chất, nội dung và hình thức phong phú, phức tạp, cần được hiểu theo nghĩa bao quát, bao gồm các yếu tố thuộc ý thức pháp luật, quan hệ pháp luật và các quy phạm pháp luật, được xác định trong một giới hạn phù hợp. Giới hạn đó chỉ bao gồm những bộ phận mà giữa chúng có mối liên hệ nội tại mật thiết với nhau và có thể sắp xếp theo một trật tự lôgích, khách quan và khoa học. Vì vậy, không mở rộng khái niệm tới cả những vấn đề mà tuy chúng có mối liên hệ và ảnh hưởng nhất định, nhưng không phải là cơ bản và trực tiếp.
Theo đó, hệ thống pháp luật được hiểu là: Tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, quan điểm, định hướng, chính sách, mục đích pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân định thành các nhóm ngành, các ngành luật, các chế định pháp luật và được thể hiện trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, thủ tục luật định và các nguồn khác theo quy định của pháp luật. Hệ thống pháp luật là một khái niệm chung bao gồm hai mặt cụ thể là hệ thống cấu trúc của pháp luật và hệ thống văn bản pháp luật.
4. Định vị hệ thống pháp luật pháp luật Việt Nam trong bản đồ pháp luật thế giới
Việc quan niệm và phân loại hệ thống pháp luật có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Tuy nhiên, tất cả các quan niệm và cách phân loại đó chỉ mang ý nghĩa tương đối. Thực tế đã cho thấy, trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá pháp lý, xu hướng các quốc gia đều có sự lựa chọn và kết hợp các yếu tố hợp lý của các truyền thống pháp luật để xác định cấu trúc, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước mình là xu hướng phổ biến; tính thuần khiết của mỗi truyền thống (dòng họ) pháp luật trong mỗi quốc gia hầu như cũng không còn nguyên vẹn nữa.
Trong một nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng và lập bản đồ các hệ thống pháp luật trên thế giới của nhóm nghiên cứu Trường Đại học Tổng hợp Ottawa, được công bố vào năm 2009 cho thấy như sau[11]:
Trong số các nước và vùng lãnh thổ (gọi chung là thực thể chính trị (political entities) được khảo sát thì có:
- Nhóm truyền thống pháp luật dân sự: Có 98 thực thể (chiếm 39,84%) (Việt Nam nằm trong nhóm này) và 65 thực thể (26,42%) có sự kết hợp với truyền thống luật dân sự;
- Nhóm truyền thống thông luật: Có 47 thực thể (18,10%) và 49 thực thể có kết hợp với truyền thống thông luật (19,92%);
- Nhóm truyền thống pháp luật tập quán: Có 3 thực thể (1,22%) và 63 thực thể (25,61%) có kết hợp với truyền thống luật tập quán;
- Nhóm truyền thống pháp luật hồi giáo: Có 1 nước (Afganistan) và 33 nước (13%) có kết hợp với truyền thống pháp luật hồi giáo.
Theo kết quả khảo sát này, giới luật học quốc tế coi Việt Nam là nước có hệ thống pháp luật hoàn toàn theo truyền thống pháp luật dân sự, hầu như không chịu sự tác động đáng kể nào của các truyền thống pháp luật khác (như truyền thống thông luật, pháp luật hồi giáo hay pháp luật tập quán).
Theo chúng tôi, kết quả khảo sát trên đã định vị hệ thống pháp luật Việt Nam trên bản đồ pháp luật thế giới theo một số tiêu chí cơ bản của trường phái luật so sánh, xếp hệ thống pháp luật Việt Nam thuộc nhóm 98 nước có hệ thống pháp luật theo truyền thống pháp luật dân sự (truyền thống pháp luật châu Âu lục địa) được đặc trưng bằng nguồn luật viết, có cấu trúc chặt chẽ, thống nhất.
Ngoài đặc điểm cơ bản đó, hệ thống pháp luật Việt Nam còn có những đặc điểm đặc thù riêng đó là: một hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa gắn liền với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và truyền thống pháp lý Việt Nam.
5. Nhận xét và kiến nghị
5.1. Nghiên cứu, phân tích một số quan niệm, học thuyết pháp lý đương đại điển hình trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI có thể rút ra một số nhận xét sau:
- Khái niệm cấu trúc của hệ thống pháp luật là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học pháp lý hiện đại, đặc biệt là của triết học pháp luật, nơi các nhà tư tưởng pháp lý lớn như Hans Kelsen, H.L.A.Hart, Joseph Raz, John Henry Merryman và Ronald Dworkin đã có nhiều phát hiện mới và kiến tạo nên hệ thống lý thuyết pháp lý hiện đại, trong đó có những khái niệm, luận điểm nền tảng có giá trị tham khảo cao cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của các nước bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội của mỗi nước và quốc tế. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để tiếp thu giá trị lý luận, thực tiễn của các học thuyết đó và kinh nghiệm vận dụng các giá trị đó trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của các nước là rất quan trọng và cần được đẩy mạnh ở Việt Nam. 
- Các khái niệm, luận điểm, phương pháp tiếp cận và luận giải của mỗi nhà tư tưởng, mỗi trường phái đều có những giá trị, bản sắc và sự khác biệt riêng, nhưng trong chiều sâu của các khái niệm, luận điểm, triết lý về bản chất, cấu trúc của hệ thống pháp luật của các trường phái đó đều có những điểm chung và có sự liên thông tương tác nhất định trong khái niệm chung về cấu trúc hệ thống pháp luật. Có thể nêu và so sánh khái quát như sau:
+ Kelsen là người đã đặt nền móng cho tư duy pháp lý hiện đại bằng mô hình cấu trúc tháp hệ thống quy phạm pháp luật với trật tự thứ bậc thống nhất, lôgich, chặt chẽ, bảo đảm tính thống nhất và tính hợp pháp của toàn bộ trật tự pháp lý. Tuy nhiên đây là mô hình có tính thuần tuý pháp lý, tĩnh tại, chưa chú trọng giải quyết mối quan hệ giữa hệ thống pháp luật với các yếu tố xã hội và văn hoá.
+ Hart là người đã phát hiện những hạn chế hệ thống lý thuyết của kelsen, đã phát triển và bổ sung yếu tố xã hội vào khái niệm cấu trúc hệ thống pháp luật với hệ thống lý thuyết về các quy tắc xã hội và giải quyết mối quan hệ giữa các quy phạm sơ cấp và các quy phạm thứ cấp, coi con người và sự vận hành thực tế của pháp luật là cơ sở để xác định cấu trúc của hệ thống pháp luật.
+ Raz là người đã kế thừa quan điểm của Hart, đồng thời bổ sung yếu tố thể chế, nhấn mạnh yếu tố tổ chức và phát triển lý luận về pháp luật như một hệ thống quy phạm được thể chế hoá[12]. Theo Raz, để hiểu đúng cấu trúc hệ thống pháp luật thì phải nhìn nhận nó như một thực thể xã hội có tổ chức, trong đó các quy tắc, thể chế và thẩm quyền pháp lý được vận hành trong mối quan hệ tương hỗ với nhau để điều chỉnh và định hướng hành vi con người.
+  Merryman tiếp tục mở rộng khái niệm cấu trúc của hệ thống pháp luật và mô tả cấu trúc hệ thống pháp luật như một cơ chế vận hành bao gồm ba yếu tố: Quy tắc pháp luật; các thể chế (cơ quan) pháp luật và các tục pháp lý để vận hành, bảo đảm sự minh bạch, công bằng và hiệu lực thực tế của hệ thống pháp luật. Merryman cho rằng, để hiểu bản chất và cấu trúc của hệ thống pháp luật thì không thể chỉ xem xét nội dung của các quy phạm pháp luật mà phải nhận thức được toàn bộ cơ chế vận hành của pháp luật như một chỉnh thể sống động.
+ Dworkin tiếp tục phát triển tư tưởng của Hart và kelsen, có tham khảo tư tưởng của Raz và Merryman, tiếp tục bổ sung và phát triển lý thuyết về cấu trúc hệ thống pháp luật theo một tư duy mới, xây dựng hệ thống lý luận về “diễn giải pháp lý” và đề xuất mô hình cấu trúc hệ thống pháp luật gồm 3 yếu tố là: Quy tắc pháp luật; nguyên tắc pháp luật và chính sách với lập luận: Ba yếu tố quy tắc, nguyên tắc và chính sách không tồn tại độc lập mà luôn tương tác với nhau trong “một mạng lưới diễn giải”. Điểm đặc sắc trong lý thuyết của Dworkin về cấu trúc của hệ thống pháp luật là ông nhấn mạnh vai trò đặc biệt của nguyên tắc với luận điểm: Nguyên tắc khác với quy phạm ở chỗ, nó không có cấu trúc “nếu…thì” có định mà có sức nặng (weight) và tầm quan trọng trong từng trường hợp cụ thể. Do đó, nguyên tắc chính là cấu trúc nền tảng ẩn dưới các quy tắc và là yếu tố tạo nên “bản sắc đạo lý” của hệ thống pháp luật. Cùng với luận điểm này, Dworkin cũng đã đưa ra lý thuyết về “diễn giải pháp lý”. Theo Dworkin, không thể hiểu hệ thống pháp luật đơn thuần bằng việc “đọc” quy phạm mà phải diễn giải nó trong bối cảnh xã hội, đạo đức và truyền thống pháp lý. Quá trình diễn giải này chính là “mạch sống của cấu trúc hệ thống pháp luật”. Từ những luận điểm này, Dworkin còn hướng tới một tầm mức cao hơn với ý tưởng xây dựng một hệ thống lý thuyết về pháp luật như một hệ thống toàn vẹn, bao gồm: sự toàn vẹn về quy phạm, sự toàn vẹn về thể chế và sự toàn vẹn về diễn giải pháp lý. Với lý thuyết này, một mô hình cấu trúc hệ thống pháp luật cũng được phác thảo như một chỉnh thể: đạo lý - thể chế - diễn giải.
- Những phân tích, so sánh một cách khái quát về điểm chung và riêng của các học thuyết, quan niệm trên cho thấy, mỗi học thuyết, quan niệm đều có những giá trị, yếu tố hợp lý có thể tham khảo vận dụng cho việc hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta sẽ lựa chọn, tham khảo những gì và vận dụng như thế nào cho phù hợp với điều kiện xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Điều này chắc chắn sẽ nhận được sự quan tâm và giải quyết theo mục đích và yêu cầu cụ thể trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
5.2. Cấu trúc hệ thống pháp luật là một vấn đề có tính lý luận và thực tiễn quan trọng. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về cấu trúc hệ thống pháp luật đã được nghiên cứu nhưng chưa toàn diện, đầy đủ và sâu sắc. Theo chúng tôi, khái niệm cấu trúc hệ thống pháp luật bao gồm: cấu trúc bản chất, cấu trúc nội dung và cấu trúc hình thức của hệ thống pháp luật. Tương ứng với ba nội dung, ba cấp độ của khái niệm cấu trúc hệ thống pháp luật đòi hỏi phải có ba phương pháp tiếp cận chủ yếu đó là triết học pháp luật, lý luận pháp luật, kỹ thuật pháp lý và kết hợp với các phương pháp có liên quan khác. Vì vậy, cần có quan điểm toàn diện hơn trong tiếp cận cấu trúc hệ thống pháp luật trên mỗi bình diện và cấp độ đó.
5.3. Trong những năm đổi mới vừa qua, chúng đã nghiên cứu và xây dựng được bộ khung cấu trúc hệ thống pháp luật tương đối toàn diện, tạo cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu, vận dụng chủ yếu vẫn chủ yếu ở cấu trúc nội dung và hình thức của hệ thống pháp luật chưa chú trọng đúng mức đến nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận một cách toàn diện, sâu sắc, nhất là cấu trúc về bản chất và giải quyết mối quan hệ giữa cấu trúc bản chất, cấu trúc nội dung và cấu trúc hình thức của hệ thống pháp luật. Vì vậy, trong thời gian tới, mà trước mắt là phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật cần chú trọng hơn vấn đề này.
5.4. Một số đề xuất cụ thể về cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam:
(1) Cấu trúc tổng thể của hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm bốn tố là chính sách, thể chế, nguyên tắc, quy phạm. Đây là mô hình cấu trúc bản chất của hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong đó, hệ thống chính sách có vai trò định hướng, dẫn dắt, thể hiện quan điểm, mục tiêu, giải pháp kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại có tính ổn định, lâu dài mà hệ thống pháp luật hướng tới phản ánh và điều chỉnh. Thể chế có chức năng thực hiện các hoạt động tạo lập, thực thi và áp dụng pháp luật bằng các quy trình, thủ tục chặt chẽ, chính danh, hợp pháp, hiệu quả. Nguyên tắc là những nguyên lý có tính cơ bản, sâu sắc được xã hội thừa nhận về pháp lý và đạo đức, có chức năng là cơ sở nền tảng cho việc giải thích, áp dụng và phát huy hiệu lực của các quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật là những quy tắc, chuẩn mực quy định cụ thể để xác định quyền, nghĩa vụ, các biện pháp khuyến khích, thúc đẩy và chế tài cụ thể trong các tình huống điển hình cần điều chỉnh, kiến tạo và định hướng của pháp luật.
(2) Cấu trúc nội dung của hệ thống pháp luật hệ thống luật có bốn thành tố bao gồm: lĩnh vực pháp luật; ngành luật; chế định pháp luật và quy phạm pháp luật. Trong đó, lĩnh vực pháp luật là toàn bộ hệ thống pháp luật (kể cả luật vật chất và luật thủ tục) trên một lĩnh vực của đời sống xã hội hoặc mang những đặc điểm đặc thù của một lĩnh vực của đời sống pháp luật[13]. Việc xác định lĩnh vực pháp luật có thể theo phương thức xác định được nêu trong Nghị quyết số 48-NQ/TW, có điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn hiện nay hoặc xác định theo lĩnh vực pháp luật như: lĩnh vực pháp luật hành chính, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật kinh tế….
Việc xác định cấu trúc của hệ thống pháp luật có 4 yếu tố sẽ tạo cơ sở cho việc xây dựng hệ thống pháp luật một cách khoa học, hợp lý và thuận tiện hơn, vừa bảo đảm tính thống nhất, ổn định vừa bảo đảm tính mở, tính năng động để phát huy vai trò thích ứng và hiệu lực của mỗi bộ phận hợp thành và của toàn bộ hệ thống pháp luật. Ví dụ, trong một lĩnh vực pháp luật có thể có các luật chung, xác định hệ thống nguyên tắc chung và những quy phạm nền tảng cho các luật điều chỉnh các quan hệ cụ thể trong mõi ngành luật thuộc lĩnh vực đó…
(3) Cấu trúc hình thức của hệ thống pháp luật thể hiện ở cấu trúc trật tự pháp luật của hệ thống nguyên tắc, quy phạm pháp luật theo cấu trúc tháp pháp luật đặc trưng của hệ thống pháp luật thuộc truyền thống pháp luật dân sự và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật thể hiện hệ thống nguyên tắc quy phạm pháp luật.
(4) Về các mối quan hệ, giữa cấu trúc bản chất với cấu trúc nội dung của hệ thống pháp luật là mối quan hệ mối quan hệ giữa bản chất; giữa cấu trúc nội dung và cấu trúc hình thức của hệ thống pháp luật là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
                                                                                                              GS.TS Lê Minh Tâm